
Giới thiệu
Nhân vật khách mời thứ 2 của Tạp chí VNOI lần này là một người thầy vô cùng nổi tiếng không chỉ trong cộng đồng Lập trình thi đấu mà còn cả trong cộng đồng Tin học nói chung. Thầy là đồng tác giả trong cuốn Sách giáo khoa Chuyên Tin nổi tiếng, và cũng đã dẫn đoàn dự thi IOI của Việt Nam trong nhiều năm, trong đó có năm 1999 - khi Việt Nam đứng đầu thế giới với 3 huy chương vàng. Và hôm nay chúng mình xin được giới thiệu đến mọi người, thầy Nguyễn Thanh Tùng.
Phỏng vấn
Khi mà Tin học còn là một lĩnh vực rất mới, cơ duyên nào đã đưa thầy đến với sự lựa chọn này?
Hiện tại thì Tin học không còn là “môn mới” nữa – mọi người đều đã quen biết, trẻ em được tiếp xúc với môn học này từ rất sớm. Nhưng trước đây thì nền Tin học vẫn còn non trẻ, và tôi bước vào ngành Tin học theo sự sắp đặt của xã hội.
Những năm 60 của thế kỷ XX là thời kỳ kỷ luật Xã hội Chủ nghĩa rất mạnh – sinh viên không phải chọn ngành, nhà nước phân công, phân ngành dựa trên nhu cầu phát triển của xã hội. Tình cờ, tôi được phân vào ngành “Toán học Tính toán”. Thời kì ấy chưa có tên gọi Tin học, Tin học nằm trong toán và là khoa học tính toán. Sở thích của tôi lúc bấy giờ là Hoá học, nói chung tôi chỉ biết sơ qua về sự tồn tại của máy tính, vì thế không có sở thích rõ rệt với ngành học. Tuy nhiên, nhà nước đã phân công, và sinh viên chúng tôi cần tích cực tiếp nhận, nỗ lực làm tốt công việc của mình.Và vì thế, tôi là một trong những người tham gia vào lĩnh vực Tin học Việt Nam tương đối sớm.
Thầy là một trong những người thầy đầu tiên của nền Tin học Việt Nam. Trong thời kỳ đầu, thầy đã gặp những khó khăn, trở ngại gì, và thầy đã vượt qua như thế nào?
Giống như hoàn cảnh chung của Việt Nam cho tới giữa những năm 90 của thế kỉ XX: tài liệu rất khan hiếm và mọi người phải hết sức cố gắng đọc, tìm hiểu thêm.
Đặc biệt, mọi người phải chắt chiu từng giờ máy một. Số lượng máy ít ỏi nên, chi phí sử dụng máy lúc bấy giờ cực kỳ đắt – một giờ dùng máy tính bằng vài ba chục ngày công lao động. Vì thế mọi người đều phải cố gắng làm việc nghiêm túc, hiệu quả nhất có thể.
Vậy thì khi đó, trước khi đưa mã nguồn lên máy chạy, các thầy cần kiểm tra rất đúng không ạ?
Thời kỳ đó, chúng tôi có những đợt thực tập được sử dụng máy, và phải làm việc trực tiếp bằng lệnh máy, không phải ngôn ngữ lập trình thông thường. Khi đó có ba loại ngôn ngữ lập trình phổ biến COBOL, Fortran và ALGOL-60. Người sử dụng bình thường chủ yếu dùng Fortran và ALGOL-60, còn người làm Tin học sẽ chủ yếu sử dụng ALGOL-60.
Đương nhiên, chúng tôi phải rất cẩn thận trong lập trình. Sau khi lập trình xong, chúng tôi phải đục lỗ trên băng/bìa và gửi cho chạy. Nếu có sai sót gì thì về phải sửa và gửi lại, có khi mất cả ngày trời mới lại có kết quả.
Chính vì vậy, việc lập trình đòi hỏi sự cẩn thận chu đáo từng tí một, và đặc biệt rất là tiết kiệm giờ - nếu như chạy máy quá nhiều giờ, kinh phí sẽ không thể đủ, không ai có thể có đủ kinh tế để chi trả như thế cả. Mặc dù chúng tôi được nhà trường tạo điều kiện rất nhiều, nhưng không có nghĩa là được phung phí quá mức khả năng chi trả của Khoa.
Dạ thưa thầy, vậy máy tính là của công ty/đơn vị nào ạ?
Tôi học ở Nga, khi đó có hai loại máy: máy của nhà trường, và máy của các xí nghiệp liên kết với nhà trường. Chúng tôi được tạo điều kiện được thực tập ở các xí nghiệp đó. Nhưng (ở xí nghiệp) thường thường chúng tôi phải làm vào chiều tối và ban đêm, vì ban ngày được dành cho phục vụ sản xuất, trong khi máy của nhà trường sẽ dành cho nghiên cứu khoa học và các khoá luận, đồ án tốt nghiệp của sinh viên. Cũng vì thế, các đợt thực tập của sinh viên năm nhất, năm hai sẽ bị đẩy lùi lại, nếu không chịu khó, cố gắng sẽ không làm được quá nhiều việc.
Thầy thấy việc dạy và học ở Việt Nam có khác gì ở nước ngoài không ạ?
Khi trở về Việt Nam, tôi may mắn được dạy Đại Học Bách Khoa. Ở Đại Học Bách Khoa, phần lớn giảng viên trưởng thành từ các trường đào tạo của Nga, thành ra phong cách làm việc của chúng tôi cũng hao hao những ngày còn theo học ở nước ngoài.
Thời kì ấy, toàn bộ miền Bắc Việt Nam chỉ còn một máy Minsk-22 thôi, thành ra việc thực tập của mọi người là chuyện rất là hiếm hoi – nó chỉ như cuộc “thử nghiệm” một lần. Sau này, máy Minsk-22 được chuyển giao cho trường Đại Học Bách Khoa, từ đó có nhiều cơ hội làm việc hơn. Giữa những năm 80, Việt Nam đặt mua máy EC-1022 – loại máy tính tương đương với máy IBM 360/40 gần như hiện đại nhất của nước mình (trong miền Nam, Mỹ đã đưa máy IBM 360/50 hiện đại hơn). Máy tính của trường Bách Khoa chiếm diện tích hơn 200m2, bằng nhiều phòng gộp lại để có thể lắp ráp và chạy như bình thường.
Lúc bấy giờ, để dùng máy tính, ta phải điền đục lỗ. Muốn có được chương trình, phải gửi chương trình đó cho bộ phận xuyên phiếu, và lấy tấm bìa đã được xuyên đem ra cho bộ phận chạy. Chúng tôi ở ngay trong nhà trường, được phụ trách máy và tự mình chạy lấy, nhưng không thể chạy vô tội vạ vì còn phải phục vụ các hợp đồng sản xuất.
Ở thời kỳ đầu, khi đưa môn Tin học xuống phổ thông, tình hình lúc ấy như thế nào, và khó khăn ra sao ạ?
Lần đầu tiên đưa Tin học vào nhà trường phổ thông là năm 1995 với chương trình phân ban, có lẽ đó là chương trình Tin học phổ thông thành công nhất. Nhờ chương trình phân ban, những em học sinh có hứng thú với công nghệ mới chọn học, vì thế thái độ học rất nghiêm túc. Cộng thêm sự xuất hiện của máy vi tính, mỗi trường được trang bị từ 8 – 10 máy, “nguồn vốn” đó đối với năm 1995 là đủ để cho các bạn học sinh được thực hành, làm việc. Cả học sinh và giáo viên đều hào hứng hơn khi được tiếp cận với Tin học – với cái “mốt” của thời đại.
Sau này, đáng tiếc, không được như vậy nữa. Khi mà máy tính trở nên phổ biến, người ta thấy rằng chuyện đó quá đơn giản, và không còn chú tâm như xưa. Họ tập trung vào khai thác những gì đã có sẵn trên máy, việc tự mình học tập, tự mình tìm hiểu, tự mình làm ra sản phẩm thì ít được chú ý hơn. Cái gì nhiều quá thì nó trở thành bình thường.
Trong quá trình thầy dạy cả phổ thông lẫn đại học, thầy thấy tâm đắc nhất điều gì?
Bất kì ngành nghề nào cũng có những học sinh, sinh viên rất giỏi, và cũng có những bạn khá yếu, đó là chuyện bình thường. Tuy nhiên, đối với ngành Tin học, sinh viên nào giỏi thì sẽ cực giỏi, còn sinh viên nào đã kém thì … sẽ cực kém. Tin học đòi hỏi sự say mê, và tính “kỷ luật xã hội” của chúng ta chưa cao lắm. Điều đó dẫn đến chuyện năng suất làm việc trong Tin học của một số người rất yếu, và càng yếu thì họ càng xa rời nó thôi. Do đó trình độ phân hoá trong một lớp học đã rất lớn rồi, chưa nói đến giữa các ngành nghề khác nhau, sử dụng Tin học như công cụ.
Thầy có ấn tượng với các cá nhân, các khoá học sinh nào có thành tựu lớn, có đóng góp lớn cho nền Tin học không ạ?
Đóng góp thì tôi nghĩ có rất nhiều người đóng góp, trong nhiều lĩnh vực khác nhau, cũng thuộc Tin học, nhưng thuộc nhiều ngành nghề khác nhau. Từ năm 1989, chúng ta có Olympic Tin học Quốc tế, nước mình tham gia từ năm 1989 tới bây giờ, và năm nào cũng có giải chính thức. Đặc biệt, năm 1999 ở Thổ Nhĩ Kỳ, chúng ta còn đứng nhất thế giới!
Thực sự mà nói, những học sinh của mình, bạn nào giỏi thì sẽ cực giỏi. Đó là đặc trưng của khu vực châu Á – aicó sự kiên trì, tính kỷ luật, và có đam mê, sẽ đào rất sâu vào lĩnh vực đó.
Olympic Học sinh giỏi Tin học (IOI) bấy giờ chỉ được cử ba học sinh đi thi, trong khi thi Olympic sinh viên (ICPC) được cử đi nhiều hơn, từ một đến hai, thậm chí ba đội. Từ những năm 2000 trở lại đây, nước ta có tham gia thi ICPC, tuy nhiên, với tầng lớp sinh viên hồi đấy, thành tích ở mức tạm, chưa được cao lắm nhưng cũng không phải là quá tệ.
Đối với học sinh, việc đào tạo trong nhà trường, mặt bằng giáo dục cao hơn, nên có phong trào của tất cả các trường. Chính vì vậy, ta chọn được lớp tốt nhất, và ta cũng có nhiều học sinh giỏi hơn. Mặt khác, sinh viên lại theo từng trường, không thể tập hợp toàn bộ trí tuệ toàn quốc: Trường nào làm được công việc tốt thì sẽ gặt hái được kết quả tương đối khá. Trong khi đó, Học sinh giỏi Quốc gia sẽ tập trung tất cả học sinh và chọn các phần tinh tú nhất.
Với việc thi ICPC, em thấy rằng một team mạnh không chỉ là sự kết hợp của ba bạn mạnh, mà được cấu thành từ những bạn với các điểm mạnh khác nhau. Thầy có nhận xét gì về thi ICPC so với thi Học sinh giỏi ạ ?
Việc chọn lọc đội tuyển ICPC như chọn đội tuyển bóng đá giữa các thành phố - được cục bộ hoá. Các đội ICPC đi thi như những trận bóng giữa các thành phố với nhau, chất lượng trung bình sẽ không cao bằng “Đội tuyển Quốc gia” – các bạn thi HSGQG.
ICPC đòi hỏi tính hoàn thiện tuyệt đối, khác với đánh giá mức độ hoàn thiện của VOI. Học sinh khi thi HSGQG, thỏa mãn được bao nhiêu test sẽ nhận được điểm tương ứng với kết quả, trong khi đó, sinh viên cần phải làm đúng 100% mới được công nhận tương xứng. Cách làm việc của hai phía cũng khác nhau. Học sinh thi cá nhân thuần túy, sinh viên được đòi hỏi phải có tinh thần đồng đội, tính tổ chức, phương pháp làm việc thích hợp. Một số đội ít chú ý đến việc tổ chức phối hợp đồng đội, thì năng suất làm việc sẽ giảm đi đáng kể.
Hiện nay, Bộ Giáo Dục đang đẩy mạnh phổ cập môn Tin học đến các cấp phổ thông. Năm vừa rồi, Tin học lần đầu tiên được đưa vào làm một trong các môn thi tốt nghiệp. Thầy có nhận xét gì về vai trò của môn Tin học hiện nay?
Từ việc được thực hiện chương trình phân ban 1995 từ năm 1999, Tin học đã được phổ cập toàn bộ ở cấp phổ thông. Tuy nhiên ở thời đó, môn Tin học chưa phải là môn để đi thi. Việc đưa Tin học vào một trong các môn thi sẽ là động lực cho cả học sinh và giáo viên, nâng cao chất lượng giáo dục. Với sự chú ý đó, kiến thức tin học sẽ không thay đổi ngày một ngày hai, nhưng sẽ tiến triển dần dần, ngày một tăng lên.
Thầy có lời khuyên gì cho thế hệ học sinh / giáo viên trẻ đang theo đuổi ngành Tin học không ạ?
Tôi đã nhận lời tham gia giảng dạy trong một trại hè mùa thu năm nay tại UIT (trường Đại Học Công nghệ Thông tin, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh). Trại hè bao gồm các học sinh tham gia học chương trình thuật toán, những bạn sinh viên đã qua đào tạo chuyên sâu, và những bạn sinh viên mới bắt đầu. Trong đó, bao giờ tôi cũng nhấn mạnh đối với học tập và nghiên cứu, đặc biệt là môn Tin học, đòi hỏi cả kiến thức và kĩ năng: Không chỉ là ta biết, mà ta còn phải làm được.
Vì vậy, ta cần duy trì cho học sinh cái sự nỗ lực cố gắng, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn. Khi dạy, ta có những đặc thù cần phải nhắc, phải lưu ý cho học sinh sinh viên. Đặc biệt, với các bạn sinh viên năm nhất, năm hai, những ví dụ cụ thể với tác động trực tiếp lên sinh viên sẽ cực kì hiệu quả.
Tin học không chỉ đơn thuần là từ toán mà ra, nó bao gồm tất cả các mặt của khoa học kĩ thuật và đời sống xã hội. Chính vì thế, ta có thể thâm nhập nhiều lĩnh vực khác nhau, với Tin học là công cụ hỗ trợ đắc lực. Tin học nằm trong diện toán rời rạc, có nhiều thứ không dính dáng gì đến nhau. Nhưng nếu con người ta bắt nhịp được nhịp điệu, quy luật của bộ môn này, thì ta mới nhanh chóng lĩnh hội được kiến thức.
Không biết các bạn đã từng nghe bài Trường Ca Sông Lô của Văn Cao chưa?
Em đã từng nghe rồi mà em không thuộc ạ.
Toàn bộ bài hát ấy, lời văn rất là trúc trắc. Ví dụ như hai câu đầu:
Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu.
Nghe có vẻ rất trúc trắc. Nhưng nếu ta nghe cái âm nhạc của nó, và ta nghe lặp lại chỉ một vài lần, thì hoàn toàn có thể “thuộc” và nhớ lại được câu này.
Chỉ khi con người ta bắt nhịp được nhịp điệu, thì ta mới có thể dễ dàng nhớ nó được. Ta phải lưu ý điều này: Khi trang bị kiến thức, ta không thể ồ ạt ôm tất cả mọi thứ, mà phải ôn từng phần một. Với tính chất rời rạc của Tin học, ta không có tính chất liên tục như giải tích hay hình học. Vì thế, giáo viên phải cho học sinh, sinh viên thấy được rằng, dù trang bị cho từng mảng nhỏ đó, khi kết hợp lại, ta nhận được kết quả có tính liên tục, hài hoà với nhau.
“Các bạn nhìn vào tấm ảnh này, nhìn liên tục 20 giây.
Sau đó (không chớp mắt) nhìn lên tường. Nếu không thấy gì, hãy chớp một lần.
Bạn tìm thấy điều gì đặc biệt?”
Chăm chú nhìn vào chấm đỏ hình bên trái hay 4 dấu chấm giữa hình bên phải 20 giây sau đó nhìn lên tường. Nếu chưa thấy gì – chớp mắt một lần.
Nhà trường trang bị từng mảng kiến thức nhỏ, và các mảng ấy có vẻ rời rạc, không dính dáng gì với nhau. Tuy nhiên, kết quả của toàn bộ quá trình ấy sẽ tự động tái cấu trúc trong đầu chúng ta, tạo một mảng kiến thức hoàn chỉnh như một phương trình giải tích liên tục. Đó là cái mà học sinh và sinh viên cần phải quán triệt được, để có câu trả lời mỗi khi tự vấn sự “nhảy cóc” liên tục tới các mảng khác nhau.
Ban đầu, bức tranh này đơn giản, sẽ nhanh chóng tạo được hình, nhưng cũng nhanh chóng mất đi. Nếu ta trang bị sâu hơn, học sâu và nhiều hơn, chi tiết sẽ đọng lại lâu và chắc. Xác định tư tưởng ban đầu là cực kỳ quan trọng, để tránh sự chán nản tức thì, hay cố ý bỏ qua một số phần. Như trong hình ảnh phía trên, chỉ cần bỏ qua một vài vết đen, ta sẽ không nhìn thấy được bức tranh đấy nữa.
Tin học là ngành khoa học định lượng, cái gì cũng cần chỉ ra cách làm việc, không chỉ đơn thuần là lý thuyết.
Ta có công thức S = vt (Đường đi bằng tốc độ nhân thời gian) mà học sinh lớp 7 ai cũng đã từng học qua. Khi xem bắn pháo hoa mùng 2 tháng 9, thì họ có xác định được nó nổ cách mặt đất bao nhiêu mét không?
“Bạn có biết được pháo hoa tầm cao nổ cách mặt đất bao nhiêu mét không?
D..Dạ em không biết ạ. Em đoán chắc là tầm 150m ạ.”
Ánh sáng ta nhìn thấy ngay lập tức, nhưng âm thanh phải cần một khoảng thời gian chờ. Thành ra khoảng cách có thể tính bằng khoảng thời gian giữa việc ta nhìn thấy và nghe thấy nhân với tốc độ âm thanh. Nhưng mà phải làm thế nào để vừa xem pháo hoa, vừa tính được thời gian? Không phải ai cũng có đồng hồ bấm giờ!
Tin học sẽ chỉ cho người ta phương pháp, các cách làm việc để đạt được mục đích: Một trong số các quy tắc là như này: Khi ta nói “Mississippi”, thời gian sẽ trôi qua một giây. Giả sử ta nói được hai lần như thế, và đến lần thứ ba ta nghe thấy tiếng nổ. Thế là ta có thể tự suy ra được khoảng thời gian xấp xỉ 2.33 giây, và tính được độ cao ở mức xấp xỉ 750m. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết pháo hoa tầm cao (nổ từ độ cao 100m đến 800m).
Tin học không phải là chỉ áp dụng công thức S = vt. Nó đặt ra câu hỏi: làm thế nào để có được t, và từ đó làm thế nào để tính được khoảng cách. Khác với Vật Lý – sử dụng công thức và những con số cho sẵn, người làm Tin học cần chỉ ra cách có được con số đó, và đó là cái mà người ta cần ở Tin học - những con số hoàn toàn cụ thể.
Công thức S = vt là công thức vật lý rất phổ cập, và ta sẽ gặp nó rất nhiều lần, không ở dạng này thì cũng ở dạng khác. Nếu như lúc nào tôi cũng nhắc S = vt, học sinh sinh viên sẽ rất chán, chả nhớ gì cả. Nhưng nếu họ bí một bài tập nào đó, thì một lần gợi ý “Có nhớ chuyện bắn pháo hoa không?” sẽ là chìa khóa cực kỳ hữu hiệu. Cần phải gợi cho họ hình ảnh gì đó. Nếu mình chỉ hỏi: hãy cho tôi biết hai câu đầu tiên trong bài hát nổi tiếng nhất của Văn Cao, thì rất ít người liên tưởng được. Chỉ khi tiếng nhạc vang lên, họ mới có thể nhớ được những lời ca đến từ bài Trường Ca Sông Lô.
Tin học được ứng dụng rộng rãi, và nó có chỗ để phát triển trong mọi lĩnh vực. Nếu như có Tin học, ta sẽ có được cách nhìn, cách đánh giá sâu sắc hơn.
“Bạn có nhớ bài Thu Điếu của Nguyễn Khuyến không?”
Bài thơ hồi tưởng lại phong cảnh làng quê nước ta thời kì phong kiến. Nhưng nó còn một cái hay khác nữa làm bài thơ rất hấp dẫn: ( Nguyễn Khuyến dùng vần “eo” vốn rất khó gieo vần, bài thơ hay về mặt hình ảnh, nhưng còn hay về mặt nghệ thuật nữa.Khi bạn muốn làm một bài thơ gì đó và lên AI tìm từ gieo vần, bạn sẽ thấy vần “eo” có số lượng ít hơn hẳn các vần khác.
Tin học có thể hỗ trợ ta trong lĩnh vực này. Mỗi khi bí từ, ta có thể sử dụng Tin học để tìm kiếm vốn từ mới, từ đó có thể chọn được từ thích hợp cho bài thơ của mình.Tin học không chỉ phục vụ cho tính toán, mà nó còn được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực, kể cả thơ ca.
Cái gì cũng có cái đẹp của nó, và giáo viên cần phải cho học sinh thấy được cái đẹp đó.
“Các bạn có đọc truyện cổ Andersen không?”
Trong đó, đặc trưng các câu chuyện Andersen quán triệt rất rõ sự trân trọng cái đẹp, cái tốt, để có thể động viên, làm động lực phát triển cho người đọc đi lên, không nhìn vào mặt tiêu cực. Nếu ta chịu khó nhìn vào mặt tích cực, cái gì cũng có ưu điểm cả. Vì thế ta cần định hướng học sinh tìm hiểu, nhìn vào ưu điểm của nó.
Trong câu chuyện về chim hoạ mi của Andersen, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của nghĩa địa (!). Nghĩa địa đương nhiên là chẳng có gì, nhưng Andersen đã thuyết phục người đọc nhìn vào cái đẹp của nó: “Chim họa mi hót ca ngợi vẻ đẹp bình yên của nghĩa địa, nơi có những hàng phong cao vút đứng cúi đầu lặng lẽ, nơi ngào ngạt hương thơm của các khóm hoa hồng bạch với thảm cỏ xanh mướt mềm mại như nhung và đẫm lệ người đời”
Khi tiếp cận hình ảnh nghĩa địa theo hướng khác, ngay cả thần chết cũng bị chinh phục bởi vẻ đẹp tích cực của nó và không cầm lòng phải quay về ngay. Sự lạc quan đã đuổi thần chết đi, và nhà vua khoẻ mạnh trở lại.
Làm sao để học sinh thấy ưu điểm, không chỉ nói một lần, mà phải lặp lại thật nhiều lần. Trên cơ sở đó, ta có thể cung cấp cho học sinh rất nhiều kiến thức khác nhau mà không thể dạy ở bên ngoài được – cực kì đa dạng, và ra khỏi phạm vi nhà trường.
“Các bạn hãy đọc một số đề bài sau”
PIRAMID.CPP

Một mặt, ta dạy cho học sinh sinh viên khai thác các công cụ để lập trình một cách nhanh chóng. Mặt khác, ta còn phải trang bị được những kiến thức xã hội mà không lúc nào khác có thể thêm vào được – nếu dạy trong những dịp khác thì nó sẽ trở thành dạy dỗ người khác. Phải để học sinh, sinh viên tự cảm nhận lấy:
Quảng cáo là thành tố không thiếu được trong cuộc sống, nhưng không phải mọi quảng cáo đều định hướng tới lợi ích của xã hội
“Bán cát cho người Ả Rập, bán tủ lạnh cho người Eskimo”. Những thứ mà người ta chẳng cần đến nhưng quảng cáo vẫn khuyến khích mua như lẽ đương nhiên.
Ta không thể dạy học sinh những thứ đấy được, phải để các em tự thấm dần qua thời gian. Đề thì có vẻ rất dài, nhưng bài code khá ngắn, tạo hứng thú cho các bạn học sinh hơn. Kiến thức thu được không nằm ở map hay set, mà là ở kiến thức thực tế liên quan tới quảng cáo, người Ả Rập và người Eskimo.
Cái này là nền tảng thấm vào một cách tự nhiên. Sau này có thể các bạn sẽ quên, nhưng một khi được hỏi “định bán cát cho người Ả Rập đấy à?” thì lại nhớ liền. (cười).
BLURB.CPP

Bài này mục đích chính nhắc về bảo vệ môi trường, và sau đó là những biến đổi toán học khá khó chịu, nhắc nhở rằng không phải bài nào cũng dễ chịu.
Toán và Tin đi liền với nhau. Ta không phủ nhận vai trò của toán học. Ta bắt buộc phải dẫn xuất công thức có vẻ rất đơn giản này, bởi vì tính từng bước một sẽ mất rất nhiều thời gian. Sử dụng toán học, ta có thể đạt được độ phức tạp O(1). Giá trị của việc biến đổi toán học rất quan trọng. Và thông qua những bài như thế này, ta nhấn mạnh việc không được coi thường môn này hơn môn khác, cũng như đâu đó là thông điệp về bảo vệ môi trường.
Số lượng và Chất lượng có mối quan hệ rất chặt chẽ. Khi số lượng thay đổi, thì chất lượng sẽ thay đổi – cái mà người ta hay nói là quy luật lượng-chất (triết học Marx – Lenin), số lượng thay đổi đến một mức nào đó sẽ mang lại thay đổi về chất lượng: Những giá trị như n <= 10^9 hay t <= 10^5 sẽ cho ra kết quả chạy tới hơn 10^27!
Giả sử như tôi đưa bài này trước năm 2021, bài sẽ mở ra nhiều vấn đề mới trong xử lý cộng, nhân và thậm chí là chia số lớn. Người học sẽ được tiếp cận với các công cụ mới hơn, như trong trường hợp này là số nguyên 128 bit, được đưa vào C++ từ Codeblocks 21 trở đi. Nếu như ta nắm được công cụ tốt thì mọi chuyện sẽ đơn giản hơn rất nhiều. Chi phí chất xám để nắm vững công cụ sẽ hiệu quả hơn nhiều so với cái ta bỏ ra để làm từng công việc một, và công việc này có thể gặp rất nhiều lần.
Chìa khoá để hướng tới tương lai là học những khả năng mới của công cụ, và giáo viên phải cho học sinh thấy được cái lợi của điều ấy. Ta có ca ngợi tới bao nhiêu đi nữa nhưng không có ví dụ thực tiễn, thì hiệu quả sẽ không cao. Ta phải đầu tư rất nhiều về nội dung của đầu bài, định hướng của bi tập: bao gồm kiến thức xã hội, bồi dưỡng con người và kiến thức liên quan đến công cụ cụ thể.
Tôi nghĩ rằng Tin học không đến độ quá khó, nhưng điều mọi người hay làm khiến cho Tin học trở nên khó hơn, mất đi tính hấp dẫn, đó chính là mọi người thúc đẩy quá trình lên quá nhanh. Như người xưa hay nói “Trăng đến rằm thì tròn”, không thể thúc học sinh làm bài tập khó, những vấn đề rắc rối. Ta cần hướng dẫn tư duy giải thuật, quen với cách triển khai, đón nhận giải thuật. Đi từng bước, từng bước một. Dần dần, học sinh sẽ trưởng thành hơn.
Những điều thầy chia sẻ cho các bạn học sinh, và đặc biệt cho các thầy cô, thật sự đáng trân quý. Em mong rằng tinh thần của thầy, câu chuyện của thầy sẽ truyền cảm hứng cho những thế hệ học sinh, giáo viên mãi về sau.
Chúng em xin cảm ơn thầy vì những chia sẻ cho số báo lần này!
Bình luận